CUỘC HIỆN RA CỦA ĐỨC MẸ AKITA
Ðức Mẹ Akita nói gì với nhân loại hôm nay?
Nữ Tu Sugawara
Năm 1946, một năm sau
khi thế chiến thứ hai chấm dứt, một phụ nữ trẻ trở thành người định cư ở
Yuzawadai, một đỉnh đồi chưa được khai thác cách trung tâm thành phố Akita 7
cây số. Tên của thiếu nữ ấy là Sumako Sugawara và sau này cô trở thành người
đầu tiên tìm đến Seitai Hoshikai.
Sinh ra tại Akita,
Sumako Sugawara phụ giúp cha và gia đình buôn bán quần áo. Để bù lại sự giúp
đỡ, cô được phép rửa tội trở thành người Công giáo, một giấc mơ cô đã theo đuổi
từ thời thơ ấu. Biến cố này là một biến cố rất vui, là một sự chúc lành mà cô
đã chờ đợi gần 10 năm qua. Sau khi rửa tội, cô bị thu hút bởi ý định theo đuổi
một đời sống cầu nguyện chiêm niệm và cô đã quyết định xin vào tu viện
Trappistine ở Hakodate, tỉnh Hokaido, dù phải hy sinh công việc giúp đỡ gia đình
buôn bán. Thế nhưng nhà dòng trả lời đơn xin của Sumako rằng: với dáng người
nhu mì như cô thì cô không thể chịu đựng nổi đời sống khó khăn làm việc nặng
nhọc và cầu nguyện ở đây. Đơn xin nhập tu viện bị từ chối.
Khi biết được việc xin
vào nhà dòng của Sumako, cha mẹ cô hết sức bực tức và cô liền bị đuổi ra khỏi
gia đình. Mất nơi nương tựa gia đình, cô tiến hành công việc trồng cấy với dự
tính trở thành thầy dạy cho những nữ học sinh nông nghiệp đang làm việc ở Nông
trường thời chiến ở Shogunno, Akita. Trong thời gian này, Sumako trải qua một
kinh nghiệm không quên được. Cô chứng kiến cuộc tấn công cuối cùng vào Nhật bản
trong thời chiến tranh, sau này được biết đến đó là cuộc không tập Tsuchizaki
rạng sáng ngày Nhật bản đầu hàng quân đội đồng minh. Kinh nghiệm khắc nghiệt
này có ảnh hưởng mạnh mẽ trên đời sống đức tin của cô hơn nữa.
ĐỜI SỐNG Ở YUZAWADAI
Sau khi chiến tranh
chấm dứt, Sumako tiếp tục ước muốn một đời sống cầu nguyện chiêm niệm, và lợi
dụng cơ hội đang có dự án phát triển đất đai của chính phủ địa phương để định
cư tại Yuzawadai. Yuzawadai là một trong những khu vực đang có chiến dịch thái
thiết định cư với mục đích gia đăng sản xuất thực phẩm trong vùng. Cùng với gia
đình người bạn gái Aiko Wada, Sumako dựng một chòi nhỏ và bắt đầu một đời sống
cầu nguyện cộng đồng vào năm 1948, khi Sumako được 28 tuổi.
Việc định cư thật đơn
giản và vùng ấy không có đường xá hay giếng nước, cũng như điện hay nước vòi.
Nước được xách mang về từ dòng suối dưới thung lũng, và một đèn dầu nhỏ dùng
cung cấp ánh sáng vào các đêm tối. Đã vậy, nhiều người cười chê họ với cái nhìn
lạnh lẽo, một số thanh niên có chút tử tế giúp họ một bàn tay để cầy xới và
khai thác đất đai. Thỉnh thoảng họ được hướng dẫn tâm linh từ linh mục Puhl và
linh mục Klein dòng Ngôi Lời của giáo xứ Akita, giúp họ kiên trì bền đỗ trong
cầu nguyện và làm việc. Thật vậy, đời sống đầy khó khăn như thế nên việc mời
gọi bất cứ người bạn nào tham gia với họ chẳng thể nào xảy ra được.
Năm 1948, Wada rời bỏ
Yuzawadai để vào tu viện chiêm niệm Thánh Đaminh ở Morioka. Sumako học được
rằng một cộng đồng chiêm niệm không thể thành hình trừ khi có mức sống căn bản
tối thiểu, thực phẩm và quần áo được bảo đảm với sự trợ giúp tài chánh cần
thiết. Năm 1950 khi cuộc sống bắt đầu kiệt quệ vì thiếu ngân sách, dâng cúng
hay thiếu chương trình vay mượn, Sumako thình lình được báo cho biết đơn xin
việc trước đây của cô nộp cho văn phòng quận trưởng được chấp thuận. Trong
những ngày đó, Nhật bản thi hành việc cải cách nông nghiệp khuyến khích làm chủ
nông trường với luật mới về đất đai nông nghiệp và cải thiện đời sống cho nông
dân. Nhờ kết quả này, Sumako có thể kiếm được tiền và với sự trợ giúp của các
tình nguyện viên do các người lãnh đạo các nhóm thanh thiếu niên, tình trạng
đời sống của cô bắt đầu được ổn định.
Năm 1951, một phụ nữ
trẻ, cô "S" đến sống tại Yuzawadai với chức vụ một người giữ nhà. Cô
ở đó giúp Sumako công việc nội trợ và các việc lặt vặt khác. Năm 1953, cô
"S", một người thợ mộc trẻ và một người thợ khác góp sức cùng nhau
dựng một căn nhà bằng gạch. Vào thời gian đó, không ai nghĩ rằng một tượng Đức
Mẹ Maria lại có thể khóc ở trong căn nhà này. Năm 1954, cô "M" được
thu hút bởi đời sống ở Yuzawadai đã đến gõ cửa và tham gia vào cộng đoàn. Thế
nhưng một năm sau vào 1956, cô "M" được gọi để gia nhập một tu viện ở
Tokyo và kết quả là Sumako và cô "S" sống trong một cộng đoàn chỉ có
2 người. Vào thời gian này, điện đã bắt đầu có và cái máy bơm tay cũ kỹ đã được
thay thế bởi một máy bơm điện. Đời sống ở Yuzawadai từ từ trở nên sáng sủa và
tiện nghi hơn.
Dâng hiến Tu hội Seitai Hoshikai - Ba Nữ Tu
Năm 1961, Sumako
Sugawara được Saki Kotake, một giáo lý viên ở giáo xứ Akita viếng thăm và hỏi
rằng: "Cô có thể làm việc với tôi để bắt đầu một ngôi nhà cho người già không? Saki giải thích rằng cô đã bàn với bà Chie Ikeda, một người sống với cô
và một ngôi nhà cho người già có thể hoạt động với sự trợ giúp của bà con bà
Ikeda". Thế nhưng, Sumako từ chối đề nghị này nói rằng, mục đích cô định
cư ở Yuzawadai là để chuẩn bị một chỗ cho mục đích lâu dài của cô về một đời
sống cầu nguyện chiêm niệm, thay vì hoạt độngt điều hành ngôi nhà cho các người
già.
Nhờ biến cố này dẫn
đến sự bàn luận xa hơn về những viễn tượng mà Sumako đã ấp ủ bao năm qua được
giải bày với hai người phụ nữ kia. Kinh nghiệm của cô sống vùng đồng quê, những
khó khăn cô đã trải qua để biến đổi nông dân thành người Công Giáo, tất cả được
chia sẻ và bàn luận. Khi Sugawara, Kotake và Ikeda tiếp tục bàn luận, sự nhất
trí gia tăng giữa họ rằng họ cần làm việc với nhau cho việc chuẩn bị thành lập
một tu hội cầu nguyện chiêm niệm đáp ứng truyền thống của Nhật.
Khi linh mục Shojiro
trở thành Giám mục đầu tiên của Giáo phận Niigata vào năm 1962, ba người phụ nữ
thỉnh cầu ước nguyện của họ được trở thành một cộng đồng chiêm niệm. Giám mục
Ito, sau khi hoàn tất các chương trình ở Akita đã viếng thăm Yuzawadai lần đầu
tiên, để xem xét địa hình. Giám mục Ito đã luôn hy vọng có thể thành lập
một nhà dòng tận hiến cho việc tôn sùng Thánh Thể. Thế nhưng, ngài trước
hết phải tham dự đầy đủ bốn năm công đồng Vatican II bắt đầu khai mạc vào năm
ấy, và bắt đầu công việc chuẩn bị về việc thành lập một tu hội đúng với những
nguyên tắc của công đồng.
Khởi Sự Khắc Tượng Đức
Mẹ
Vào năm 1963, ba nữ tu, Kotake, Ikeda và Sugawara quyết định tận
hiến cộng đồng cho Mẹ Maria và khởi sự đặt tượng Đức Mẹ ở Yuzawadai. Một tấm
hình Đức Mẹ Các Dân Tộc mà Kotake và Ikeda vẫn có lòng sùng kính được đưa cho
ông Saburo Wakasa, một thợ điêu khắc gỗ sống ở Hodono, thành phố Akita, để khắc
một tượng gỗ giống như trong hình ấy. Đức Mẹ Các Dân Tộc là danh xưng của Đức
Mẹ khi hiện ra với bà Ida Peerdeman, ở Amsterdam, Hòa lan vào khoảng giữa 1945
- 1959. Đức Mẹ mặc chiếc ào dài trắng và đứng trên quả địa cầu với một thánh
giá phía sau và Mẹ đang xoải tay xuống với bàn tay xòe ra. Ông Wakasa nói rằng
ông "chú ý đến việc làm nổi bật sự dịu dàng của Đức Mẹ và làm cho khuôn
mặt Mẹ có nét người Nhật bản. Bức tượng này, được trạm trổ ra với một con dao
duy nhất từ một khúc gỗ cây Judas, và được đặt ở phòng giải trí của Yuzawadai
Aiji-en.
Năn 1966, đăng ký trở
thành hội viên ở Yuzawadai từ từ tăng dần và Giám mục Ito đồng ý với ba nữ tu
gọi cộng đồng là "Seitai Hoshikai". Căn nhà được tu sửa lại để có một
nhà nguyện nhỏ. Đây là lần đầu tiên Thánh Thể Chúa được lưu giữ ở Yuzawadai.
Năm 1967 tiếp theo đó, Giám mục Ito đến thăm linh mục Hikaru Mochizuki, người
đang dạy thần học ở Đại học Chủng viện ở Tokyo, trở thành cha linh hướng của
các tu sĩ Seitai Hoshikai. Cha Mochizuki đến Yuzawadai vào tháng Mười Một vào
một ngày mưa lạnh buốt. Ngài là một thần học gia với 20 năm theo học ở Âu châu
và giảng cho các sơ hằng ngày về Thánh Kinh, Giáo lý, thần học và tiếng Latinh.
Ngài cũng dạy ở Trường Đại học dành cho nữ sinh viên ở Akita. Cha thích cảnh
núi đồi và người ta thường thấy cha leo các núi ở địa phương.
Chấp Thuận Là Một Tu
Hội
Giám mục Ito áp dụng
chỉ thị mới của công đồng Vatican II về "Tu hội đời" và gia tăng con
số nữ tu hoạt động mạnh mẽ sống đời sống tận hiến trong khi vẫn sống giữa lòng
người giáo dân. Ngày 12/5/1969, cộng đồng Seitai Hoshikai được hợp thức hóa là
một tổ chức tôn giáo hợp pháp do văn phòng Quận trưởng Akita công nhận. Trong
cùng năm ấy, các nữ tu Ikeda, Kotake, và Sugawara dâng lời khấn đầu tiên
"Khó nghèo, Khiết tịnh và Vâng phục" trước sự hiện diện của Giám mục
Ito.
Ngày 8/9/1970, tu nhà
viện được hoàn tất và trong cùng một ngày cộng đồng Setai Hoshikai nhận được sự
chấp thuận của Giám mục điạ phận Niigata là một cộng đồng đạo đức liên kết (một
thứ tự trong tiến trình thành hình) và cộng đồng Seitai Hoshikai chính thức được
thành hình. Con số nữ tu tiếp tục gia tăng, và đến tháng 8 năm 1972 có tất cả
16 nữ tu, trong đó 6 nữ tu sống ở nhà mẹ tại Yuzawadai và 10 nữ tu kia sống
giữa lòng đời.
Biến Cố Dấu Thánh Giá
Máu Nơi Bàn Tay Đức Mẹ
Vào năm 1969 khi cộng
đồng Seitai Hoshikai đang ở trong bước tiến cuối cùng để hình thành, phần đông
các nữ tu sống ở nhà chi nhánh tại Senshu Nakajima thành phố Akita thay vì ở
nhà mẹ tại Yuzawadai. Dĩ nhiên lý do một phần là vì các nữ tu làm việc là các
giáo lý viên và là các cô giáo ở trong thành phố, thế nhưng lý do thật sự là vì
đời sống khó khăn ở Yuzawakai. Tuy nhiên, cám ơn Giám mục Ito tích cực kêu gọi
các phụ nữ làm việc ở các nhà thờ địa phương tại Niigata, chúng tôi có thể tụ
tập đủ thành viên để đạt chỉ tiêu thành lập làm một tu hội đời. Vì thế, nữ tu
Ikeda, Kotake và một vài nữ tu khác thường sống trong thành phố nay về sống tại
Yuzawadai. Con số nữ tu sống ở nhà mẹ nhờ đó lên đến 7 người.
Một ngày nọ vào tháng
3,1973, một trong các nữ tu đời của chúng tôi làm việc tại giáo xứ Myoko, chị
"S" tự nhiên không nghe được. Bác sĩ ở nhà thương Niigata Rosai khám
bệnh cho chị và thấy là bị "tê liệt thần kinh thính giác vì quá kiệt
sức" và chị được gọi về sống ở nhà mẹ. Chị "S" thường làm ngạc
nhiên các nữ tu khác bằng cách nói với họ trong bữa ăn về kinh nghiệm thiêng
liêng của chị từ thời thơ ấu. Sau khi chị ấy về đến Yuzawadai những kinh nghiệm
huyền bí tiếp tục xảy đến với chị.
Tháng 6 năm 1973, chị
nói rằng chị chứng nghiệm thấy một luồng ánh sáng từ Nhà Tạm và chị cũng nghe
một giọng nói tuyệt vời từ tượng Đức Mẹ nói với chị. Vì linh mục Mochizuki đã
từ nhiệm làm tuyên uý và trở về Tokyo năm 1973, sự kiện này được tường trình
trực tiếp cho Giám mục Ito. Giám mục chỉ thị cho chị "đừng nghĩ rằng mình
đặc biệt bằng bất cứ cách nào", và quyết định theo dõi tình hình một thời
gian lâu hơn. Và vào tháng 7,1973 một vết thương hình Thánh giá xuất hiện
trong lòng hai bàn tay của chị "S" và trong bàn tay của tượng Đức Mẹ.
Một chị đã nhìn thấy vết thương trên tượng Đức Mẹ tường thuật lại sự kiện như
sau:
"Vào 6 giờ tối
thứ Sáu đầu tháng (đây là ngày sùng kính Trái Tim Chúa Giêsu vào mỗi tháng),
tôi vừa trở về từ trường học nơi tôi làm việc, khi chị Kotake nói với tôi về
vết thương xuất hiện trên lòng bàn tay của tượng Đức Mẹ. Tôi đến gần bức tượng
và thấy một vết thương cắt rõ nét có hình thánh giá dài khoảng 1.5 đến 2
centimeters, ở giữa lòng bàn tay phải, nét cắt giống như một con dao sắc vậy.
Tôi khẳng định là không có hình thánh giá ở tay Đức Mẹ trước đây. Tôi có
trách nhiệm phục vụ nơi phòng áo lễ đã 5 năm, và thường lau chùi tượng với khăn
vải, vì thế tôi biết chắc chắn như thế. Đêm ấy, lần nữa trong nhà nguyện, tôi
được cho thấy vết thương nơi lòng bàn tay của chị "S". Những đường
nét màu đỏ tạo thành hình một cây thánh giá và trông thật đau đớn lắm".
Một nữ tu khác làm
chứng như sau: "Có một biến cố
là một vết thương hình một cây thánh giá thình lình xuất hiện trong lòng bàn
tay của tượng Đức Mẹ và kéo dài ba tháng. Vết thương được chứng kiến bởi Giám
mục Ito và tất cả các nữ tu đang sống ở đó. Thế nhưng, bên cạnh vết thương, tôi
thấy những bong bóng máu chảy ra từ bàn tay phải của tượng Đức Mẹ. Tôi quệt vết
máu với ngón tay trỏ của tôi và đưa lên ngửi. Nó có mùi giống như máu người
ta".
Biến Cố Đức Mẹ Khóc
Trong thời gian ấy,
buổi sáng ngày 4/1/1975, xảy ra một biến cố mới khác là nước mắt bắt đầu chảy
xuống từ tượng Đức Mẹ. Những dòng nước mắt bắt đầu từ ngày này và tiếp tục mỗi
ngày, có khi cách vài ngày, tất cả 101 lần cho đến ngày 15/9/1981, Lễ Đức Mẹ
Sầu Bi. Một nữ tu chứng kiến đầu tiên những giọt nước mắt của Đức Mẹ tường
thuật như sau:
"Tôi lần đầu tiên
thấy tượng Đức Mẹ đang khóc. Tôi thấy cả hai mắt Đức Mẹ sũng ướt nước mắt khi
tôi đi từ phòng áo đến bàn thờ để sắp đặt mọi sự cho trật tự sau thánh lễ buổi
sáng. Tôi rất ngạc nhiên một giây lát, và liền sau đó tràn ngập cảm giác một sự
hiện diện Linh Thiêng. Tôi cũng cảm thấy như Đức Mẹ hiểu sự đau đớn lớn lao của
tôi, và vì thế Mẹ đã khóc cho tôi. Con số thánh giá mà tôi phải mang trên vai
càng gia tăng từ khi tôi chịu phép rửa và gia nhập tu hội, và tôi chưa nói với
ai về điều này..."
Theo thông lệ mỗi khi
Đức Mẹ khóc, các nữ tu ngưng làm việc và tụ họp trước tượng Đức Mẹ để lần hạt,
và sau đó thì linh mục lau những giọt nước mắt. Miếng bông gòn dùng lau nước
mắt Đức Mẹ được gởi tới phòng thí nghiệm tại đại học Akita và Gifu để thử
nghiệm và kết quả được xác nhận là có chứa "chất nước từ con người".
Các Thông Ðiệp Ðức Mẹ
Akita
1) Thông điệp thứ nhất
của Đức Mẹ ngày 6/7/1973
"Con yêu dấu, tập sinh của Mẹ, con đã ngoan ngoãn vâng lời
Mẹ từ bỏ mọi sự để theo Mẹ. Thương tật nơi của đôi tai có làm cho con đau đớn
lắm không? Hãy tin chắc là con sẽ được chữa lành bệnh điếc tai. Vết thương nơi
bàn tay có làm cho con đau đớn không? Hãy cầu nguyện để đền tội cho loài người.
Mỗi người trong tu viện này đều là những người con bất khả thi của Mẹ. Con có
sốt sắng đọc kinh "các Nữ Tỳ Của Thánh Thể" không? Vậy Mẹ con ta cùng
đọc nhé."
"Lạy Trái Tim Cực
Thánh Chúa Giêsu, thật sự hiện diện trong Thánh Thể, con xin hiến dâng linh hồn
và xác con, để hoàn toàn hiệp nhất cùng Thánh Tâm Chúa, đang hiến dâng từng
phút giây trên các bàn thờ khắp thế giới, để cảm tạ cùng Chúa Cha, và cầu cho
Triều Đại Cha trị đến. Xin Chúa đoái nhận lễ hèn mọn chính thân xác con. Xin
Chúa dùng con theo Thánh ý Chúa để tôn vinh Chúa Cha, và cho sự cứu rỗi các
linh hồn.
Lạy rất Thánh Đức Mẹ
Chúa Trời, xin Mẹ đừng bao giờ để con phải xa lìa Con của Mẹ. Xin Mẹ che chở và
bảo vệ con như con riêng Mẹ vậy. Amen."
Khi đọc xong bài kinh
thì có giọng nói Thiên đàng tiếp:
"Hãy cầu nguyện
nhiều cho Đức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục và các Linh Mục. Từ khi được chịu
phép Rửa Tội, con vẫn trung thành cầu nguyện cho các ngài. Hãy tiếp tục cầu
nguyện thật nhiều... thật nhiều. Hãy nói lại với bề trên của con tất cả những
gì đã xảy ra hôm nay và hãy vâng lời ngài trong mọi sự ngài sẽ nói cho con. Bề
trên của con đã yêu cầu con hãy sốt sắng cầu nguyện".
2) Thông điệp thứ hai
của Đức Maria ngày 3/8/1973
"Con yêu dấu, tập
sinh của Mẹ, con có yêu mến Thiên Chúa không? Nếu con yêu mến Thiên Chúa, hãy
lắng nghe lời Mẹ nói với con. Điều này rất quan trọng... Con hãy nói lại với bề
trên của con.
Rất nhiều người đang
gây buồn phiền cho Chúa. Mẹ muốn nhiều linh hồn an ủi Ngài để làm dịu cơn thịnh
nộ của Chúa Cha. Cùng với Con của Mẹ, Mẹ muốn nhiều linh hồn dâng những đau khổ
và khó nghèo của mình, để đền tạ cho kẻ tội lỗi và những kẻ vô ơn bội nghĩa.
Để thế gian biết cơn
thịnh nộ của Ngài, Thiên Chúa Cha đang chuẩn bị giáng xuống toàn thể nhân loại
một sự trừng phạt ghê gớm. Mẹ đã nhiều lần cùng với Con Mẹ, can thiệp để làm
nguôi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa Cha. Mẹ đã ngăn cản được tai họa đổ xuống nhờ
dâng những đau khổ và hy sinh của Chúa Con đã chịu trên Thánh Giá, Máu Châu Báu
của Người đã đổ ra, và những linh hồn yêu dấu an ủi Thiên Chúa tạo thành đội
quân những linh hồn tội nhân cầu khẩn Chúa. Cầu nguyện, ăn năn thống hối và
những can đảm hy sinh có thể làm giảm cơn thịnh nộ của Thiên Chúa Cha. Mẹ muốn
cộng đoàn các con cũng làm điều này như vậy... đó là yêu mến đức khó nghèo để
tự thánh hoá và cầu nguyện đền tạ những sự xúc phạm và vô ơn bội nghĩa của rất
nhiều người.
Hãy đọc kinh các Nữ Tỳ
Của Thánh Thể với sự ý thức ý nghĩa của nó, và đem ra thực hành; hãy phó dâng
(tất cả những gì Thiên Chúa gửi đến), để đền tạ tội lỗi. Mỗi người hãy cố gắng
tùy theo khả năng và địa vị của mình, dâng hiến toàn thân mình cho Chúa.
"Ngay cả trong
một Tu hội đời, việc cầu nguyện rất cần thiết. Những linh hồn sẵn sàng cầu
nguyện thì đang trên đường được quy tụ lại. Ðừng ràng buộc chú ý nhiều đến hình
thức, hãy trung thành và sốt sắng cầu nguyện để yên ủi Chúa.
Ngừng một lát Đức Mẹ
nói tiếp:
"Điều gì con nghĩ
trong lòng có thật không? Con có thực sự quyết định trở nên viên đá bị thợ xây
loại bỏ không? Hỡi tập sinh của Mẹ, con là người không do dự, mong ước được
hoàn toàn thuộc về Chúa, muốn được trở nên hiền thê xứng đáng của Đấng Phu
Quân, thì con hãy tuyên hứa với sự hiểu biết rằng con phải chịu đóng đanh vào
Thánh Giá bằng ba cái đinh nhọn: Đó là ba cái đinh của khó nghèo, khiết tịnh và
vâng lời. Trong ba điều này, đức vâng lời là nền tảng. Để hoàn toàn từ bỏ bản
thân, hãy để bề trên hướng dẫn con. Ngài sẽ biết thế nào để hiểu con và hướng
dẫn con.'
3) Thông điệp thứ ba
của Đức Trinh Nữ ngày 13/10/1973
"Con gái cưng của
Mẹ, hãy lắng nghe những lời Mẹ phải nói với con. Và con hãy nói lại với bề trên
của con.' (Ngưng một lát):
"Như Mẹ đã nói với con, nếu loài người không ăn năn sám hối
và cải thiện đời sống, Thiên Chúa Cha sẽ giáng xuống một hình phạt khủng khiếp.
Hình phạt này còn khủng khiếp hơn nạn đại hồng thuỷ, một hình phạt mà loài
người chưa từng thấy bao giờ. Lửa sẽ từ trời rơi xuống tiêu diệt một phần lớn
nhân loại, người lành cũng như kẻ dữ, không chừa các linh mục lẫn người giáo
dân. Những kẻ sống sót sẽ cảm thấy cô quạnh đến nỗi thèm khát số phận của người
chết. Niềm an ủi duy nhất còn lại cho các con là Chuỗi Mân côi và Dấu Chỉ mà
Con Ta để lại. Hãy đọc kinh Mân côi mỗi ngày. Với chuỗi Mân côi, hãy cầu nguyện
cho Đức Thánh Cha, cho các Giám mục và các linh mục".
"Thế lực ma quỷ
sẽ xâm nhập vào trong Giáo Hội, đến nỗi người ta sẽ thấy Hồng y chống đối Hồng
y, Giám mục chống đối Giám mục. Những linh mục có lòng sùng kính Mẹ sẽ bị chính
đồng bạn của họ khinh miệt và chống đối... Thánh đường và bàn thờ bị cướp phá;
Giáo Hội thì đầy dẫy những người chấp nhận thương lượng thỏa hiệp, và ma quỷ sẽ
ép buộc nhiều linh mục và những linh hồn thánh hiến từ bỏ việc phụng sự Thiên
Chúa".
"Ma quỷ đặc biệt
sẽ không buông tha chống lại những linh hồn đã dâng hiến cho Chúa. Nghĩ đến sự
mất mát quá nhiều linh hồn như thế là nguyên nhân làm cho Mẹ đau buồn. Nếu tội
lỗi gia tăng cả số lượng và cường độ thì sẽ không còn tha thứ cho họ được
nữa."
"Với can đảm hãy
nói lại với bề trên của con. Ngài sẽ biết cách nào để khuyến khích mỗi người
các con cầu nguyện và hoàn thành những công việc đền tạ tội lỗi."
Khi Tiếng Nói đã
ngưng, tôi lấy hết can đảm để ngước đầu lên, thì thấy bức tượng vẫn còn sáng
láng, nhưng nét mặt Mẹ đượm một vẻ buồn. Rồi tôi định bụng hỏi, 'Ai là bề trên
của con?' Bỗng nhiên tôi cảm thấy Thiên thần hiện ra bên cạnh tôi, tôi không
nghe được tiếng nói nhưng chỉ cảm thấy Thiên thần nói với tôi, 'Trong những dịp
như vậy đúng ra con có thể hỏi những câu hỏi quan trọng hơn.' Nhưng ngoài Đức
Giám Mục, tôi còn có ba bề trên nữa, nên nghĩ đây là cơ hội để hỏi.
Tức thì Tiếng Nói trả
lời:
"Đó là Đức Giám
Mục Ito, người hướng dẫn tu hội của con."
Đức Mẹ mỉm cười và nói
tiếp:
"Con còn điều gì
muốn hỏi nữa không? Hôm nay là lần cuối cùng Mẹ nói với con bằng tiếng nói sống
thực. Từ nay trở đi con sẽ vâng lời đấng được gửi đến với con và bề trên của
con".
"Hãy năng cầu
nguyện kinh Mân côi. Chỉ một mình Mẹ còn có thể cứu các con khỏi những thảm hoạ
sắp xảy ra. Những ai tin tưởng nơi Mẹ thì sẽ được cứu thoát."
Lá Thư Của Điạ Phận
Đức Giám mục Ito ra
chỉ thị nghiêm ngặt cho các nữ tu rằng: "Những biến cố xảy ra ở đây rất
huyền nhiệm, vì thế nên hành xử một cách thận trọng. Tôi yêu cầu mỗi chị em giữ
im lặng về việc này". Thế nhưng chẳng bao lâu biến cố này được tiết lộ qua
những khách hành hương đã chứng kiến các biến cố và rồi bài viết được đăng trên
nguyệt san Công Giáo. Bài viết ấy cho biết số người chứng kiến Đức Mẹ khóc lên
đến 500 người. Không những người ta thấy nước mắt mà còn cảm nghiệm một mùi
thơm dễ chịu lúc ấy nữa.
Vào ngày 22/4/1984
trước khi về hưu theo luật của Giáo phận Niigata, Giám mục Ito phổ biến
"Thư Giáo phận liên quan đến tượng Đức Mẹ Akita" như sau:
- Theo cuộc điều tra
của tôi, không có điều gì từ chối những chuỗi biến cố siêu nhiên chung quanh
tượng Đức Mẹ ở Seitai Hoshikai, Yuzawadai, thành phố Akita. Và tôi cũng không
tìm thấy điều gì trái ngược với đức tin và luân lý.
- Vì thế, tôi không
ngăn cấm việc tôn kính Đức Mẹ Akita trong giáo phận cho tới này chúng ta có
được trả lời chắc chắn từ Tòa thánh Rôma.
Tháng 6 năm 1988 Đức
Hồng Y Ratzinger, Trưởng Bộ Tín lý đức tin, đưa ra phán quyết về biến cố ở
Akita và những thông điệp là đáng tin cậy và có giá trị đức tin.
Bạn thân mến,
Những biến cố hôm nay đang xảy ra từ nhiều nơi trên thế giới và ở Việt nam
dường có phần đúng với lời tiên tri của Mẹ. Là Mẹ ai cũng thương con mình. Mẹ
Maria một đàng thương chính Con mình, một đàng Mẹ thương chúng ta. Mẹ không
muốn nhân loại đi sai đường, Mẹ không muốn một lưỡi gươm thâu qua lòng Mẹ một
lần nữa khi thấy hình phạt của Thiên Chúa giáng xuống trên nhân loại, Mẹ không
muốn nhân loại tiếp tục lầm bước trong đêm tối. Mẹ mời gọi nhân loại hãy trở về
với Thiên Chúa bằng cách sám hối, ăn năn và dâng những hy sinh lên Thiên Chúa.
Vũ khí mà Mẹ ban cho nhân loại để chiến đấu với thế gian và ma quỷ đó chính là
Chuỗi Mân Côi. Ước gì mỗi người hãy tiếp tay với Mẹ giữa thế giới hôm nay đầy
biến loạn và đã rời xa Thiên Chúa. Mẹ đang mời gọi bạn, đặc biệt những người
con yêu mến Mẹ hãy tiếp tay với Mẹ để hướng nhân loại về với Thiên Chúa và làm
dịu bớt cơn thịnh nộ mà nhân loại đang chọc giận Ngài.
(Nguồn: thanhlinh.net)
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét