HIỂU & SỐNG SỨ ĐIỆP MÙA
CHAY 2012
CỦA
ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI
Lời ngỏ
Quý anh chị học viên các Khóa Thánh Kinh
và Thần Học và các anh chị em, bạn hữu gần xa quý mến,
Ai trong chúng ta cũng hiểu (ít/nhiều) ý
nghĩa và tầm quan trọng của Mùa Chay. Nhưng người hiểu ý nghĩa và tầm quan
trọng của Mùa Chay một cách sâu sắc và đầy đủ nhất chắc phải là Đức Thánh Cha
Bê-nê-đíc-tô XVI của chúng ta. Ngài chẳng những hiểu mà còn có trách nhiệm giúp
con cái mình hiểu và sống trọn vẹn ý nghĩa của Mùa Chay. Để làm việc đó Ngài đã
gửi cho toàn thể Dân Chúa trên khắp thế giới này một sứ điệp, gọi là Sứ Điệp
Mùa Chay 2012. Bổn phận của chúng ta là đọc, tìm hiểu và sống (thực thi) Sứ
Điệp ấy.
Để giúp quý anh chị và các bạn trong
việc hệ trọng này, tôi xin mạn phép được gợi ý đôi điều.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Sài-gòn ngày 14 tháng 02 năm
2012
PHẦN
I
ĐỌC
SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2012 CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI
“Chúng ta hãy quan tâm đối với nhau, để
khích lệ nhau trong đức bác ái và các công việc lành” (Dt 10,24).
Anh chị em,
Một lần nữa Mùa Chay cống hiến cho chúng
ta cơ hội suy tư về nòng cốt đời sống Ki-tô, đó là đức bác ái. Thực vậy, đây là
thời kỳ thuận tiện để, nhờ sự trợ giúp của Lời Chúa và các Bí Tích, chúng ta
đổi mới hành trình đức tin, trên bình diện bản thân cũng như cộng đồng. Đây là
một hành trình được đánh dấu bằng kinh nguyện và chia sẻ, thinh lặng và chay
tịnh, trong khi chờ đợi niềm vui Phục Sinh.
Năm nay, tôi muốn đề nghị một vài suy tư
dưới ánh sáng một văn bản ngắn của Kinh Thánh rút từ Thư gửi Tín Hữu Do-thái : “Chúng
ta hãy quan tâm đối với nhau để khích lệ nhau trong đức bác ái và trong việc
lành” (10,24). Đây là một câu được đưa vào một đoạn văn trong đó tác giả
Sách Thánh nhắn nhủ hãy tín thác nơi Chúa Giê-su Ki-tô như vị Thượng Tế, Đấng
đã đạt cho chúng ta ơn tha thứ và dẫn đến Thiên Chúa. Thành quả việc đón nhận
Chúa Ki-tô là một đời sống được phát triển theo 3 nhân đức hướng thần, đó là :
tiến đến gần Chúa “với con tim chân thành trong sự viên mãn của đức tin” (c.22),
giữ vững “việc tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta”(c.23) luôn chú ý thi
hành “đức bác ái và các việc lành” (c.24) cùng với các anh em khác.
Đoạn này cũng khẳng định rằng để nâng đỡ cách cư xử theo tinh thần Tin Mừng như
thế, điều quan trọng là tham dự các buổi gặp gỡ phụng vụ và cầu nguyện của cộng
đoàn, hướng nhìn về mục tiêu mai hậu là sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa
(c.25). Tôi dừng lại ở câu 24 : qua vài chữ, câu này cống hiến một giáo huấn
quí giá và luôn thời sự về 3 khía cạnh của đời sống Ki-tô, đó là quan tâm đến
tha nhân, tính chất hỗ tương và sự thánh thiện bản thân.
1.
“Chúng ta hãy quan tâm” : trách nhiệm đối với người anh em.
Yếu tố đầu tiên là lời mời gọi “hãy quan
tâm”, hãy chú ý : động từ Hy-lạp dùng ở đây là Katanoein, có nghĩa là quan sát
kỹ lưỡng, chú ý, nhìn một cách ý thức, nhận thức một thực tại. Chúng ta thấy
động từ này trong Tin Mừng, khi Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ hãy “quan sát”
chim trên trời, tuy không làm việc vất vả, nhưng chúng vẫn được Chúa Quan Phòng
ân cần chăm sóc (x. Lc 12,24), và hãy “nhận ra” cái xà trong mắt mình trước khi
nhìn thấy cọng rơm trong mắt của người anh em (x. Lc 6,41). Chúng ta cũng thấy
động từ ấy trong một đoạn khác của Thư gửi Tín hữu Do- thái, như lời mời gọi
hãy “chú ý đến Chúa Giê-su” (3,1), là tông đồ và là thượng tế của đạo chúng ta.
Vì thế, động từ mở đầu lời nhắn nhủ chúng ta, mời gọi hãy chăm chú nhìn người
khác, trước tiên là nhìn Chúa Giê-su, và chú ý đối với nhau, đừng tỏ ra là
người xa lạ với nhau, đừng dửng dưng về số phận của các anh em. Thực tế, ta
thường thấy trái độ trái ngược : dửng dưng, không tha thiết, những thái độ này
nảy sinh từ lòng ích kỷ, được che đậy bằng cái vẻ “tôn trọng đời tư của người
khác”. Ngày nay, tiếng Chúa cũng vang dội mạnh mẽ kêu gọi mỗi người chúng ta
trở thành những người canh giữ anh em mình (x. St. 4,9), thiết lập những quan
hệ ân cần đối với nhau, quan tâm đến thiện ích của tha nhân và của mọi người.
Đại giới răn yêu thương tha nhân đòi hỏi và yêu cầu chúng ta hãy ý thức mình có
trách nhiệm đối với những người là thụ tạo và là con Thiên Chúa, giống như ta :
là anh em với nhau trong tư cách là người, và trong nhiều trường hợp, là anh em
đồng đạo với nhau, phải làm cho chúng ta nhìn thấy nơi tha nhân như một bản
thân khác của mình, được Chúa yêu thương vô biên. Nếu chúng ta vun trồng cái
nhìn này về tình huynh đệ, liên đới, công bằng, thì lòng từ bi và cảm thông sẽ
tự nhiên nảy sinh từ con tim chúng ta. Vị Tôi Tớ Chúa Phao-lô VI đã khẳng định
rằng thế giới ngày nay đau khổ nhất là vì thiếu tình huynh đệ : “Thế giới
bệnh hoạn. Bệnh của thế giới này không phải do sự phung phí tài nguyên hoặc vì
một số người vơ vét của cải, nhưng là do sự thiếu tình huynh đệ giữa con người
và các dân tộc với nhau” (Thông điệp «Phát triển các dân tộc» ngày
26/3/1967, số 66).
Sự quan tâm đến người khác bao gồm ước
muốn cho họ điều thiện hảo, dưới mọi khía cạnh : thể lý, luân lý và tinh thần.
Nền văn hóa hiện đại dường như đã đánh mất ý thức thiện và ác, giữa lúc cần
phải tái mạnh mẽ khẳng định rằng sự thiện hiện hữu và chiến thắng vì Thiên Chúa
là “Đấng tốt lành và làm điều thiện” (Tv 119,68). Sự thiện là điều khơi dậy,
bảo vệ và thăng tiến sự sống, tình huynh đệ và hiệp thông. Trách nhiệm đối với
tha nhân như thế có nghĩa là muốn và làm điều thiện cho họ, mong ước họ cũng
được cởi mở đối với tiêu chuẩn điều thiện ; quan tâm đến anh em có nghĩa là mở
rộng đôi mắt trước những thiếu thốn của họ. Kinh Thánh cảnh giác về nguy cơ con
tim chai đá, không còn nhạy cảm về tinh thần, làm cho ta mù quáng trước những
đau khổ của tha nhân. Thánh Lu-ca thánh sử kể lại hai dụ ngôn của Chúa Giê-su
trong đó có trình bày hai thí dụ về tình trạng như thế có thể xảy ra trong tâm
hồn con người. Trong dụ ngôn người Sa-ma-ri-ta-nô nhân lành, vị tư tế và thầy
Lê-vi “đi tránh qua bên kia”, dửng dưng đối với người bị cướp bóc lột và đánh
đập (x. Lc 10,30-32), và trong dụ ngôn người giàu sụ, người này đầy ứ của cải
nên không nhìn thấy thân phận của ông La-gia-rô nghèo khổ chết đói trước cửa
nhà ông (x. Lc 16,19). Trong cả hai trường hợp chúng ta thấy thế nào điều là
trái ngược với sự “quan tâm”, với cái nhìn yêu thương và cảm thông. Điều gì ngăn
cản cái nhìn nhân đạo và yêu thương như thế đối với người anh em ? Thường
thường đó là sự giàu có vật chất và sự quá đầy đủ, nhưng cũng có thái độ đặt tư
lợi và những bận tâm của mình lên trên hết. Không bao giờ chúng ta được thiếu
khả năng “có lòng từ bi” đối với người đau khổ : không bao giờ con tim chúng ta
được phép bị mất hút trong những sự vật và các vấn đề của mình đến độ trở nên
điếc đối với tiếng kêu của người nghèo. Trái lại, chính tâm hồn khiêm tốn và
kinh nghiệm bản thân về đau khổ có thể tỏ ra là nguồn mạch sự thức tỉnh nội tâm
về sự cảm thông và thương cảm : “Người công chính nhìn nhận quyền của người lầm
than, trái lại kẻ gian ác không nghe tiếng nói của lý trí” (Cn 29,7). Như
thế ta hiểu hạnh phúc “của những người khóc lóc” (Mt 5,4), nghĩa là những người
có khả năng ra khỏi chính mình để cảm động trước đau khổ của tha nhân. Gặp gỡ
với tha nhân và mở rộng con tim đối với nhu cầu của họ chính là một cơ hội để
được cứu độ và hạnh phúc thật.
Sự “quan tâm” đến người anh em như thế
cũng bao gồm sự ân cần đồi với thiện ích thiêng liêng của họ. Và ở đây, tôi
muốn nhắc nhớ một khía cạnh của đời sống Ki-tô giáo mà tôi thấy dường như bị
lãng quên : đó là sự sửa lỗi huyhnh đệ nhắm đến sự sống đời đời. Nói chung ngày
nay người ta rất nhạy cảm đối với những bài nói về sự chăm sóc và tình bác ái
đối với thiện ích thể lý và vật chất của tha nhân, nhưng người ta lại hầu như
hoàn toàn im lặng về trách nhiệm tinh thần đối với anh em mình. Trong Giáo Hội
sơ khai và trong các cộng đoàn thực sự trưởng thành trong đức tin không có thái
độ như thế ; trong các cộng đồng ấy người ta không những quan tâm đến sức khỏe
thể xác của người anh em, nhưng cả sức khỏe tâm hồn của người ấy nữa. Trong
Kinh Thánh chúng ta đọc thấy rằng : “Hãy khiển trách người khôn ngoan và
họ sẽ biết ơn bạn. Hãy khuyên bảo người khôn ngoan và họ càng khôn ngoan hơn ;
hãy dạy dỗ người công chính và họ sẽ gia tăng kiến thức” (Cn 9,8ss). Chính
Chúa Ki-tô đã truyền phải chính đốn người anh em đang phạm tội (x. Mt 18,15).
Động từ dùng để định nghĩa sự sửa lỗi huynh đệ - elenchein - cũng là động từ
chỉ sứ vụ ngôn sứ tố giác của các Ki-tô hữu đối với một thế hệ chiều theo điều
ác (x. Ep 5,11). Truyền thống của Giáo Hội đã liệt kê việc khuyên bảo tội nhân
vào số những hành động từ bi về tinh thần (thương linh hồn bẩy mối). Điều quan
trọng là phục hồi chiều kích này của đức bác ái Ki-tô. Không được im lặng trước
sự ác. Ở đây tôi nghĩ đến thái độ của những tín hữu Kitô, vì tôn trọng người
khác hoặc vì tiện ích, họ chiều theo não trạng chung, thay vì cảnh giác anh em
mình về những lối suy nghĩ và hành động trái ngược với sự thật và không theo
con đường sự thiện. Nhưng sự khiển trách theo tinh Ki-tô không bao giờ do sự
thúc đẩy của tinh thần kết án hoặc trách cứ ; nhưng luôn do sự thúc đẩy của
tình thương và lòng từ bi, nảy sinh từ sự ân cần thực sự đối với thiện ích của
người anh em. Thánh Phao-lô Tông Đồ quả quyết : “Nếu có người nào bất chợt
bị bắt gặp phạm lỗi nào, thì anh chị em là những người có Thần Khi hãy sửa chữa
họ với tinh thần dịu dàng. Và bạn hãy cảnh giác đối với chính mình để chính bạn
khỏi bị cám dỗ” (Gl 6,1). Trong thế giới chúng ta bị thấm nhiễm xu hướng
cá nhân chủ nghĩa, cần phải tái khám phá tầm quan trọng của sự sửa lỗi huynh
đệ, để cùng nhau tiến bước về sự thánh thiện. Thậm chí “người công chính
sa ngã 7 lần” (Cn 24,16) như Kinh Thánh đã nói, và tất cả chúng ta đều là
người yếu đuối và thiếu sót (x. 1 Ga 1,8). Vì thế, thật là rất hữu ích khi giúp
đỡ và để cho mình được giúp đỡ có cái nhìn chân thực về bản thân mình, để cải
tiến chính cuộc sống của mình và tiến bước ngay thẳng hơn trên con đường của
Chúa. Chúng ta luôn cần có một cái nhìn yêu thương và sửa chữa, nhận biết và
nhìn nhận, phân định và tha thứ (x. Lc 22,61), như Thiên Chúa đã và đang làm
với mỗi người chúng ta.
2.
“Đối với nhau” : ơn hỗ tương với nhau”.
Sự “canh giữ” đối với tha nhân như thế
tương phản với não trạng thu hẹp cuộc sống vào chiều kích trần thế, không để ý
đến viễn tượng mai hậu và chấp nhận bất kỳ chọn lựa luân lý nào nhân danh tự do
cá nhân. Một xã hội như ngày nay có thể trở nên điếc đối với những đau khổ thể
lý cũng như những đòi hỏi tinh thần và luân lý của cuộc sống. Nhưng cộng động
Ki-tô không thể như vậy ! Thánh Phao-lô Tông đồ mời gọi tìm kiếm điều dẫn tới “hòa
bình và xây dựng lẫn nhau” (Rm 14,19), giúp đỡ “tha nhân trong điều thiện
để xây dựng họ” (Rm 15,2), không tìm tư lợi,“nhưng là lợi ích của nhiều
người, để họ đạt tới ơn cứu độ” (1 Cr 10,33). Sự sửa lỗi và khuyên nhủ
nhau trong tinh thần khiêm tốn và bác ái như thế phải là thành phần đời sống
của cộng đoàn Ki-tô.
Các môn đệ của Chúa, kết hiệp với Chúa
Ki-tô qua Thánh Thể, sống trong một sự hiệp thông liên kết họ với nhau như chi
thể của cùng một thân mình. Điều này có nghĩa là tha nhân thuộc về tôi, cuộc
sống, phần rỗi của họ liên hệ tới cuộc sống và phần rỗi của tôi. Ở đây chúng ta
động chạm đến một yếu tố rất sâu xa của tình hiệp thông : cuộc sống của chúng
ta có liên hệ tới cuộc sống của người khác, trong điều thiện cũng như trong
điều ác ; tội lỗi cũng như những việc lành bác ái đều có một chiều kích xã hội.
Trong Giáo Hội, Nhiệm thể của Chúa Ki-tô diễn ra sự hỗ tương như thế : cộng
đồng không ngừng làm việc thống hối và kêu cầu ơn tha thứ vì những tội lỗi của
con cái mình, nhưng cũng luôn vui mừng hân hoan vì chứng tá nhân đức và bác ái
được triển nở nơi mình. Thánh Phao-lô quả quyết “Các chi thể chăm sóc lẫn
nhau” (1 Cr 12,25), vì chúng ta là một thân mình. Đức bác ái đối với anh
em, như được diễn tả qua việc làm phúc - là việc thực hành tiêu biểu trong mùa
chay, cùng với kinh nguyện và chay tịnh - ăn rễ sâu trong sự cùng thuộc về thân
mình như vậy. Cả khi lo lắng cụ thể cho những người nghèo khổ nhất, mỗi tín hữu
Ki-tô có thể biểu lộ sự tham phần của mình vào thân thể duy nhất là Giáo Hội.
Quan tâm đến tha nhân trong tinh thần hỗ tương cũng là nhìn nhận điều thiện hảo
mà Chúa làm nơi họ và cùng với họ cảm tạ vì những kỳ công ân phúc mà Thiên Chúa
nhân lành và toàn năng tiếp tục thực hiện nơi các con cái của Ngài. Khi một
Ki-tô hữu nhận thấy nơi tha nhận hoạt động của Chúa Thánh Linh, thì họ không
thể không vui mừng vì điều đó và tôn vinh Chúa Cha trên trời (Xc Mt 5,16).
3.
“Để khích lệ lẫn nhau trong đức bác ái và trong việc lành” : cùng nhau tiến
bước trong sự thánh thiện.
Thành ngữ này của Thư gửi Tín hữu
Do-thái (10,24) thúc đẩy chúng ta cứu xét ơn kêu gọi tất cả mọi người nên
thánh, hành trình liên lỷ trong đời sống thiêng liêng, khao khát những đoàn
sủng cao cả hơn và một đức bác ái ngày càng cao và phong phú hơn (x. 1 Cr
12,31-13-13). Sự quan tâm đối với nhau có mục đích là thúc đẩy nhau tiến đến
một tình yêu thương thực sự hữu hiệu ngày càng mạnh mẽ hơn, “như ánh sáng
bình minh gia tăng huy hoàng cho đến chiều” (Cn 4,18), trong khi chờ đợi
sống ngày không bao giờ tàn trong Thiên Chúa. Thời gian được ban cho chúng ta
trong cuộc sống thật là quí giá để khám phá và chu toàn việc lành, trong tình
yêu Thiên Chúa. Như thế chính Giáo Hội tăng trưởng và phát triển để đạt tới sự
trưởng thành trọn vẹn của Chúa Ki-tô (x. Ep 4,13). Chính trong viễn tượng tăng
trưởng năng động như thế có lời chúng ta khuyên bảo và khích lệ nhau đạt tới
tình yêu viên mãn và các việc lành.
Đáng tiếc là vẫn luôn có cám dỗ sống
trong nguội lạnh, bóp nghẹt Thánh Linh, từ khước không làm sinh lợi những nén bạc
đã được ban cho chúng ta để mưu ích cho bản thân và tha nhân (x. Mt 25,25ss).
Tất cả chúng ta đã nhận lãnh những phong phú tinh thần hoặc thể chất hữu ích để
chu toàn kế hoạch của Chúa, để mưu ích cho Giáo Hội và phần rỗi bản thân (x. Lc
12,21b ; 1 Tm 6,18). Các bậc thầy linh đạo nhắc nhớ rằng trong cuộc sống đức
tin ai không tiến tức là lùi. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy đón nhận lời
mời gọi luôn có tính chất thời sự, đó là hướng đến “mức độ cao của đời
sống Ki-tô” (Gio-an Phao-lô II, Tông thư Ngàn Năm mới đang đến -
6/1/2001-, số 31). Sự khôn ngoan của Giáo hội - khi nhìn nhận và công bố chân
phúc và sự thánh thiện của một số Kitô hữu gương mẫu-, cũng có mục đích khơi
dậy ước muốn noi gương nhân đức của các vị. Thánh Phao-lô nhắn nhủ : “Anh chị
em hãy thi đua quí chuộng lẫn nhau” (Rm 12,10).
“Đứng trước một thế giới đang đòi hỏi
các tín hữu Ki-tô một chứng tá được đổi mới về tình yêu thương và lòng trung
thành với Chúa, tất cả chúng ta cảm thấy sự cấp thiết phải nỗ lực thi nhau làm
việc bác ái, phục vụ và làm việc lành (x. Dt 6,10). Lời kêu gọi này đặc biệt
mạnh mẽ trong Mùa Chay Thánh chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh”. Với lời cầu chúc một
Mùa Chay thánh thiện và phong phú, tôi phó thác anh chị em cho Đức Trinh Nữ
Ma-ri-a và thành tâm ban Phép Lành Tòa Thánh cho tất cả mọi người.
Vatican ngày 3 tháng
11 năm 2011
Biển
Đức 16, Giáo Hoàng
LM.
Trần Đức Anh OP (chuyển ngữ)
PHẦN
II
HIỂU
VÀ SỐNG SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2012 CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI
1.
Hiểu Sứ Điệp Mùa Chay 2012 của Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI
1.1 - Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô Đức XVI
xây dựng Sứ Điệp Mùa Chay 2012 của ngài trên cơ sở Thánh Kinh là lời của Thánh
Phao-lô Tông Đồ trong thư gửi tín hữu Do-thái, chương 10, các câu 22-24 :
“22Vì thế, chúng ta hãy tiến
lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong
lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được
tắm rửa bằng nước tinh tuyền. 23Chúng ta hãy tiếp tục tuyên
xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín. 24Chúng
ta hãy để ý đến nhau làm sao cho người này thúc đầy người kia sống yêu thương
và làm những việc tốt” (Dt 10,22-24).
Ba câu Thánh Kinh trên đề cập đến đời
sống đức tin của người Ki-tô hữu với ba nhân đức đối thần là Tin, Cậy và Mến.
1.2 - Nhưng Đức Thánh Cha chỉ tập trung
vào việc triển khai ý tưởng của câu 24 thuộc về đức Mến hay đức Ái mà thôi :
«Chúng ta hãy để ý đến nhau làm sao cho
người này thúc đầy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt.»
Câu Thánh Kinh trên cũng có thể dịch
thành :
“Chúng ta hãy quan tâm đối với nhau, để
khích lệ nhau trong đức bác ái và các công việc lành.”
1.3 - Sứ Điệp Mùa Chay 2012 của Đức
Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI gồm 3 phần :
1°) «Chúng ta hãy quan tâm : trách nhiệm
đối với người anh em.»
2°) «Đối với nhau : ơn hỗ tương với
nhau».
3°)
«Để khích lệ lẫn nhau trong đức bác ái và trong việc lành : cùng nhau tiến bước
trong sự thánh thiện.»
- Trước hết là việc “quan tâm hay để ý
đến nhau : trách nhiệm đối với người anh em”
* Quan tâm hay để ý đến nhau là trách
nhiệm của mọi Ki-tô hữu, chứ không phải là can thiệp vào đời tư của người khác.
* Quan tâm hay để ý đến nhau là nhìn vào
Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta và học cách sống của Người : Người quan tâm,
để ý đến hết mọi người trên mọi nẻo đường Người đi.
* Quan tâm hay để ý đến nhau là sống mầu
niệm Hội Thánh là gia đình của Thiên Chúa, Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô :
mọi người là anh chị em và là chi thể của nhau.
* Quan tâm hay để ý đến nhau bao gồm ước
muốn và hành động giúp cho người xung quanh được thăng tiến về mặt vật chất
cũng như tinh thần, về mặt văn hóa xã hội cũng như tâm linh.
* Quan tâm hay để ý đến nhau là chống
lại lối sống “cá nhân chủ nghĩa” đầy ích kỷ của thời đại ngày nay.
* Quan tâm hay để ý đến nhau là cảm
thông và nâng đỡ những anh chị em như người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu.
- Kế tiếp là «đối với nhau : ơn hỗ tương
với nhau»
* Hỗ trợ nhau là thể hiện trách nhiệm và
tình liên đới của các chi thể thuộc Thân Mình Chúa Ki-tô là Hội Thánh.
* Hỗ trợ nhau là thể hiện chiều kích
hiệp thông của các Thánh (các Thánh cùng thông công).
* Hỗ trợ nhau là nhìn nhận sự hiện diện
và hành động của Chúa Ki-tô và Thánh Thần nơi anh chị em của mình.
* Hỗ trợ nhau là khiêm nhường sửa lỗi
cho nhau và chân thành khuyên nhủ nhau trong đời sống đức tin.
- Sau cùng là «để khích lệ lẫn nhau
trong đức bác ái và trong việc lành : cùng nhau tiến bước trong sự thánh thiện.»
* Khích lệ nhau trong đức ái và trong
việc lành là thúc đẩy nhau nên thánh là ơn gọi của mọi Ki-tô hữu.
* Khích lệ nhau trong đức ái và trong
việc lành là làm cho các nén vàng nén bạc của Thiên Chúa sinh lời sinh lãi cho
anh chị em mình và cho nhân loại.
* Khích lệ nhau trong đức ái và trong
việc lành là giúp nhau đạt tới sự sung mãn hay hoàn hảo của Đức Ái Ki-tô
giáo.
* Khích lệ nhau trong đức ái và trong
việc lành là giúp nhau làm chứng cho thế giới về tình yêu thương và lòng trung
thành của các Ki-tô hữu đối với Thiên Chúa.
2.
Sống hay thực thi sứ điệp Mùa Chay 2012 của Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI
Để sống hay thực thi Sứ Điệp Mùa Chay
2012 của Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI thiết nghĩ
* Mỗi người/cộng đoàn cần phải chui ra
khỏi vỏ ốc hay pháo đài mà quan tâm đến mọi người sống xung quanh, từ những
người thân trong gia đình cho đến những người sống trong cùng khu phố/thôn xóm,
những người cùng giáo xứ và những người cùng sinh hoạt trong hội đoàn, nhất là
những người khó nghèo, những người bị thiệt thòi và những người yếu đuối.
Trong thực tế, nhiều người/cộng đoàn đã
thực hiện việc tốt lành này. Nhưng chúng ta cần phải tích cực và dũng
cảm hơn nữa, vì xu hướng chung của con người ngày nay là “mackeno” (mặc
kệ nó) và “đèn nhà ai nhà nấy rạng”.
* Mỗi người/cộng đoàn cần phải bỏ cách
sống thờ ơ hay dửng dưng trước những gì đang diễn ra trong xã hội [tội ác và tệ
nạn xã hội tràn lan, bất công và áp bức càng ngày càng tăng và đầy bạo lực,
nghèo đói càng ngày càng mở rộng từ nông thôn đến thành thị, hố ngăn cách giầu
nghèo càng ngày càng sâu] mà tích cực và chủ động dấn thân vào việc bảo vệ và
bênh vực các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và những giá trị của nền
văn minh Ki-tô giáo cũng là giá trị chung của nhân loại tiến bộ [yêu thương, chia
sẻ, liên đới, tôn trọng sự sống và các giá trị tâm linh]
Trong thực tế không có nhiều người/cộng
đoàn đã thực hiện được việc tốt lành này, vì thiếu xác tín, phương tiện và lòng
dũng cảm, khi liên quan tới các vấn đề xã hội và đụng chạm tới những người có
chức có quyền.
LỜI
KẾT
Đức Phao-lô VI đã khẳng định rằng thế
giới ngày nay đau khổ nhất là vì thiếu tình huynh đệ : “Thế giới bệnh
hoạn. Bệnh của thế giới này không phải do sự phung phí tài nguyên hoặc vì một
số người vơ vét của cải, nhưng là do sự thiếu tình huynh đệ giữa con người và
các dân tộc với nhau” (Thông điệp «Phát triển các dân tộc» ngày 26/3/1967, số
66).
Nhưng nhận định của Đức Giáo Hoàng
Phao-lô VI là ở thời điểm 1967, tức cách đây 45 năm. Ngày nay chúng ta có thể
quả quyết rằng : ngoài sự thiếu tình huynh đệ giữa con người với con người và
giữa các dân tộc với nhau thì sự phung phí và tàn phá tài nguyên của một số
người cũng như sự chiếm hữu tài nguyên cách bất công và bất chính của một thiều
số người khác đã làm cho cả thế giới này mắc một chứng bệnh mãn tính và nan y.
Chỉ có bàn tay thần linh của Chúa Giê-su
Ki-tô và của Thánh Thần Người mới chữa lành được cơn bệnh mãn tính và nan y ấy
của loài người hôm nay.
Giêrônimô
Nguyễn Văn Nội
Sài-gòn ngày 14 tháng 02 năm
2012
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét